The Lovers – Aleister Crowley Thoth Tarot
VI. THE LOVERS
Bản năng | Sự dâng hiến và hợp nhất của các mặt đối lập |
Mục đích | Sự hợp nhất hoàn toàn, trở thành một |
Nguyên lý hướng dẫn | Tình yêu như một sự biểu lộ của tính toàn bộ và sự trọn vẹn |
Ánh sáng | Sự thừa nhận và tự do quyết định từ những phần sâu thẳm trong con tim |
Bóng tối | Lý tưởng tình yêu không thể đạt được, thần kinh bị ức chế, tự hy sinh, sự do dự |
Phẩm chất | Những quyết định dũng cảm |
***
Nền Tảng Kiến Thức
Lá Bài
Lovers, lá bài của vẻ đẹp nên thơ kết nối hình thái từ bên ngoài với sự sáng tạo chứa bên trong, tìm kiếm những ý nghĩa vượt xa hơn các hình ảnh thường nhật bên trong bức màn của Câu Chuyện Tạo Thế và Sự Sa Ngã Của Con Người. Sự tập trung sâu sắc này được lấy từ “Cuộc Hôn Nhân Chymical của Hồng Hoa Thập Tự Cơ Đốc Giáo”, nơi mà sự mơ màng say xỉn với khao khát được cách điệu hóa thành “bị vây quanh bởi tình yêu”, nhưng phía sau đó là một giấc ngủ lơ mơ tiềm ẩn thành ra “không còn tồn tại”, tương ứng với phần linh hồn bị kìm chế của tinh thần tăm tối. Lá bài này đánh giá đúng các trường hợp thế này bằng cách vẽ một bên của đôi tình nhân có nước da ngâm. Ở giữa bức tranh, chúng ta có thể thấy vị vua Marốc da đen (với chiếc vương miện vàng và con sư tử đỏ) đang tuyên thệ cùng nữ hoàng da trắng với chiếc vương miện bạc và con đại bàng trắng. Sự nhiệt tâm đầy nhân tính này thể hiện cho sức hút của những mặt đối lập, mối quan hệ yêu đương giữa đàn ông và đàn bà, nỗ lực tái thiết lập sự thống nhất bị đánh mất trong vũ trụ: tình thế trước sự trục xuất khỏi thiêng đàng. Ký tự Do Thái tương ứng Zain có nghĩa là thanh gươm, công cụ cho sự chia cắt, và vì thế tượng trưng cho các thái cực. Đó là lí do vì sao khung tranh của lá bài là một mái vòm đầy gươm, và bên dưới đó, một đám cưới hoàng gia đang được cử hành. Crowley so sánh nam vương và nữ vương này với axít và kiềm, với sự pha tạp của hidro và oxy. Nhân vật quyền lực mặc áo choàng phía sau họ đang bảo trợ và giang tay mình ngay trên đầu họ, ở mức độ này, có thể là nguyên tố cacbon linh hoạt, khởi nguồn của mọi sự sống hữu cơ. Được gọi lên bởi một pháp sư vĩ đại, được tượng hình bởi thần Cupid, và được cụ thể hóa bởi con rắn (cuộn quanh “quả trứng Orphic” có cánh), Lovers cũng có thể được xem như là sự cụ thể hóa của sự vĩnh hằng, phát triển bản thân nó thành những sự sống mới được sinh ra liên tục, có thể thấy được ở hai đứa trẻ.
Phân Tích và Mô Tả
1. Mô Típ (đôi tình nhân)
1.1. Cặp đôi hoàng gia
Lovers là hình ảnh của một khía cạnh đang tìm kiếm sự kết nối với môi trường xung quanh mình của chúng ta. Sự hợp nhất nguyên thủy đã bị xé ra thành hai cực thông qua sự sáng tạo: từ đó, họ chạm trán với nhau như hai mặt đối lập của trong âm và dương, nam và nữ. Chính xác thì bởi vì họ mang các bản chất trái ngược nhau nên họ bị hút vào nhau, do đó họ mang theo khả năng tái hợp nhất những mặt đối lập này bên trong họ.
1.2. Hình dạng và Biểu cảm
Có thể thấy trên lá bài rằng đôi tình nhân đang nhìn vào nhau, nhưng không hẳn là thấy nhau. Vì thế họ chỉ chăm chăm vào hình ảnh (tư thế và điệu bộ đều đồng nhất) mà tự họ gán lên người kia. Theo như cách đó thì họ không hề nhận ra rằng họ chỉ đang nhìn vào chiếc mặt nạ của chính mình ở trước mặt người kia, ở đó họ đã phản chiếu mọi thứ mình đang thiếu, có khả năng là họ không yêu người kia nhiều như cái khái niệm của họ về sự trọn vẹn, và vì thế, họ yêu cái hình ảnh mà họ tự đặt ra về một người bạn đời lý tưởng chứ không phải yêu cái bản chất của người kia.
2. Hậu cảnh (tình yêu và quy tắc tinh thần)
2.1. Hermit
Hình ảnh Hermit ở giữa lá bài bị ẩn dấu hoàn toàn khỏi tầm mắt chúng ta, phía sau chiếc áo choàng của ông, như thể ông muốn chỉ ra rằng nguyên nhân cơ bản của sự vật nằm ở một lĩnh vực vượt xa hơn sự biểu thị và trí tuệ (Crowley). Thông qua cánh tay ban phước của mình, ông ban cho tình yêu của của hai con người những ý nghĩa thần thánh. Điều này cũng được thể hiện trong bản kế hoạch của tạo hóa, cuộn giấy được trải ra xung quanh tay của pháp sư: bản kế hoạch của tạo hóa đang kiểm soát các quy trình của tự nhiên và mang đến sự tinh thần hóa vật chất, cũng như sự duy trì giống nòi, phát huy hết bản thân nó trong nỗ lực hướng tới sự hợp nhất theo bản năng.
2.2. Eros
Nỗ lực bản năng này được miêu tả bởi Eros, người thức tỉnh những thôi thúc bản năng, là sự bộc lộ về mặt thể xác của khao khát có được sự tuyệt diệu mà mỗi sinh vật đều mang theo trong mình, bay lơ lửng phía trên chiếc mũ trùm của nhà hiền triết.
2.3. Eve và Lilith
Eve và Lilith, tượng trưng cho ánh sáng và bóng tối, đứng hai bên Tình Yêu (Eros), nó cần phải được hợp nhất bởi các cá nhân thông qua sức mạnh tình yêu. Theo như tín ngưỡng thì Lilith là người vợ đầu tiên của Adam, có nguồn gốc từ Câu Chuyện Tạo Thế thứ nhất (Genesis 1.27). Thần thoại kể rằng Lilith từ chối chuyện lúc nào cũng nằm dưới Adam khi quan hệ tình dục. Cô báo cho Adam đang căm phẫn rằng cô bình đẳng với anh vì cả hai được tạo ra cùng lúc. Khi Adam tỏ ra không chịu hiểu, cô nổi điên và bỏ anh. Từ khi đó cô được xem như là nữ quỷ bóng đêm trong tín ngưỡng Do Thái, hù dọa mấy đứa bé sơ sinh và là nguyên nhân cho chứng mộng tinh của nam giới khi cô xuất hiện trong các giấc mơ của họ. Theo như tín ngưỡng gia trưởng, cô được quy cho mặt tối của phụ nữ, trái với Eve, người được tạo ra từ xương sườn của Adam trong Câu Chuyện Tạo Thế thứ hai.
3. Tiền cảnh (vòng xoắn ốc tạo thế)
3.1.Cặp song sinh (chú thích của Crowley)
Lá bài này là lá bài đầu tiên miêu tả cặp song sinh, và chúng ta sẽ còn gặp lại mô típ này một vài lần nữa. Ở hình thái nguyên gốc của nó, nó chứa đựng Câu Chuyện Tạo Thế. Crowley viết:
Lá bài này và lá bài song sinh của nó, XIV, Art (xem trang 84 – “Nhân vật đôi”), là hai Ẩn Chính mơ hồ và khó hiểu nhất. Mỗi biểu tượng trong lá bài đều nhân đôi, vì thế các ý nghĩa của nó sẽ tạo thành một chuỗi khác nhau, và chỉ có thể đạt được sự tích hợp thông qua những cuộc hôn nhân lặp lại, sự định dạng và một vài hình thái lưỡng tính. Biểu tượng của nam và nữ được xúc tiến xa hơn bởi vũ khí của Vua và Nữ Hoàng: Ông cầm Giáo Thần và bà giữ Cốc Thánh; tay còn lại họ nắm lấy nhau, như sự ưng thuận cho cuộc Hôn Nhân. Vũ khí của họ cũng cùng lúc được hai đứa trẻ nắm giữ, và vị trí của chúng cũng được đổi cho nhau: đứa bé da trắng không chỉ giữ chiếc Cốc mà còn cầm hoa hồng, trong khi đứa bé da đen đang giữ cây Giáo của cha nó và đồng thời giữ cây gậy, một biểu tượng bình đẳng. Ở đáy lá bài là kết quả của cuộc Hôn Nhân ở dạng kịch câm và nguyên thủy: quả trứng Orphic có cánh. Quả trứng đại diện cho điều cốt lõi của mọi sự sống nằm trong thể thức của nam và nữ. Nó mang theo biểu tượng của Con Rắn được thêu trên áo choàng của Đức Vua, và của Con Ong được trang trí trên áo khoác của Nữ Hoàng.
3.2. Người đàn ông và Người phụ nữ
Đôi tình nhân tượng trưng cho nỗ lực vượt qua sự ngăn cách của giới tính, sự chia tách trong tính đối ngẫu, hoặc sự sụp đổ từ tính hợp nhất nguyên bản, và để lấy lại thiên đường đã mất. Theo như một vài tín ngưỡng nhất định thì người đàn ông và người đàn bà được tạo ra như một thể thống nhất và chỉ bị tách nhau ra sau này. Plato viết:
Sau khi hai phần của người đàn ông bị chia tách, mỗi bên đều khao khát nửa còn lại, muốn đến với nhau và vươn đôi tay đến nhau, quấn lấy nhau trong một cái ôm xiết, mong mỏi được hòa làm một. Vậy nên những giá trị cổ xưa chính là khao khát về nhau đã được khắc ghi sâu trong chúng ta, tái hợp nhất bản chất nguyên sơ của chúng ta, tạo ra một từ hai, và chữa lành trạng thái con người (“Tiệc Rượu Đêm”).
3.3. Đứa bé da trắng và Đứa bé da đen (quả trứng Orphic)
Quả trứng có cánh ở giữa dưới bức tranh, có một con rắn cuộn quanh, ẩn chứa tronng nó một bí mật của cuộc sống, với hai đứa trẻ đang cưỡi trên đôi cánh đó. Đứa bé da đen, đang giữ cây giáo (biểu tượng dương vật) của người cha, tượng trưng cho bản năng nam tính thôi thúc con người đến sự sinh sôi. Giống như con sư tử đỏ, nó là biểu tượng của ý chí sáng tạo (mặt trời, lửa, axít). Mong ước được hợp nhất chính là một biểu hiện của khao khát sâu thẳm nhất được khôi phục sự hợp nhất đã bị đánh mất. Đứa bé da trắng đang mang theo chiếc cốc của người mẹ thể hiện cho sự dâng hiến cho những nguồn lực bất tận sâu bên trong người mẹ. Giống như con đại bàng trắng, đó chính là biểu tượng mặt trăng (nước, kiềm) kết nối chúng ta với bức chân dung nữ tính bên trong chúng ta, người mẹ, và hình ảnh của Sự Nữ Tính Vĩnh Hằng.
3.4. Vòng xoáy sáng tạo (cha mẹ – con cái – người già)
Cha mẹ đại diện cho khao khát lẫn nhau được nỗ lực vì người kia. Tính đối ngẫu này, được biểu thị trong sự thu hút của các mặt đối lập, được “phóng thích” bởi mối quan hệ tình cảm của họ. Trong sự tác hợp của thiên đường, hai người họ hòa vào làm một. Bằng cách mở rộng tính đồng nhất của họ thông qua hình ảnh phản chiếu của họ (con cái), họ phát triển thành hình thái nguyên mẫu (Hermit) vượt xa phía trên họ. Vì thế Lovers kết hợp sự sống và cái chết (trẻ con và người già) bên trong họ, vì vẻ ngoài bị ẩn dấu cũng là một biểu tượng của những chu kỳ sáng tạo bất tận. Theo cách này, Lovers phát triển lên thành siêu cá nhân, thậm chí là cả vũ trụ, vì sự hợp nhất của họ trong lòng cái chết đồng nhất với khoảnh khắc của cái khái niệm liên tục thức tỉnh sự sống trong trạng thái của cái chết.
Bình Luận
Siegfried và Brunhilde
Trong “Chiếc Nhẫn của Nibelung” của Wagner, chúng ta tìm thấy một ví dụ tuyệt vời cho “Bí Ẩn của Lovers” ở cuộc gặp mặt đầu tiên giữa Siegfried và Brunhilde. Brunhilde, Nữ Thần của Cái Chết, bị trục xuất bởi cha bà là Wotan và bị phong ấn trong một giấc ngủ dài bởi vì bà đã bảo vệ đứa con ruột của ông ấy và người em trai của bà là Siegmund, người đã sa ngã vào cái chết. Khi đó Siegfried, con trai của Siegmund, được chọn để đánh thức Brunhilde khỏi giấc ngủ của bà. Anh chưa bao giờ nhìn thấy một người phụ nữ trước đây, và đã thể hiện sự say mê của mình thế này: “Tôi đội ơn mẹ mình vì đã sinh ra tôi!”. Ngay khi thức giấc, bà thừa nhận rằng mình biết anh từ khi anh còn chưa được sinh ra, và xác nhận niềm tin của anh rằng bà chính là mẹ của anh với những lời lẽ tựa như âm thanh của nhân sư: “Nhưng chúng ta là một, nếu ngươi có thể ban cho ta tình yêu của ngươi. Những gì ngươi cần học, hãy học từ ta, vì linh hồn ta chứa đầy tri thức, và ta yêu ngươi!”.
Tình yêu của Lovers
Những gì diễn ra ở đây là một phép chiếu thực thụ. Seigfried thể hiện cho bản ngã nữ tính và hình ảnh về người mẹ trong anh, và Brunhilde thể hiện cho bản ngã nam tính của mình, nhưng ít nhất bà biết là mình đang làm gì. Đằng sau cảnh tượng này giải thích bí mật biến đổi kỳ diệu của đôi tình nhân, chúng ta nhìn thấy sự thần thánh của họ đang nhấp nháy; “Nhưng chúng ta là một, nếu ngươi có thể ban cho ta tình yêu của ngươi” thể hiện rằng “Ta là sự nữ tính tồn tại trong ngươi mà ngươi đang yêu mến, và là cái mà ngươi sẽ có được thông qua tình yêu của ta”. Điều này cũng được nói giữa những dòng chữ: “Nếu tình yêu của ngươi không phản ánh qua ta thì ngươi đã tách ra khỏi sự nữ tính của mình và không còn phụ thuộc vào ta; vì chính sức mạnh khao khát của ngươi đã cho ta sức mạnh để giải phóng ngươi hoặc hủy diệt ngươi”. Câu thứ hai: “Những gì ngươi cần học, hãy học từ ta”, miêu tả sự ăn khớp tinh tế của Emperor với Empress (vật chất) hay của Magus với High Priestess (tinh thần). Điều này có nghĩa Siegfried tự che dấu chính mình nguồn tri thức bản năng nữ tính thay cho người đồng sự của mình, và nó sẽ không gây ra rắc rối nào bởi vì – như được minh họa bởi con mắt thứ ba của bà – anh có thể chắc chắn về tình yêu cảu bà dành cho anh (“Vì linh hồn ta chứa đầy tri thức, và ta yêu ngươi”).
Diễn Giải
Về bối cảnh (Cuộc hôn nhân Chymical)
Thuật ngữ “Cuộc hôn nhân Chymical”, lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Cuộc Hôn Nhân Chymical: Hồng Hoa Thập Tự Cơ Đốc Giáo” và tái xuất hiện vào năm 1616 và khiến Dòng Tu Hồng Hoa Thập Tự được công chúng khắp châu Âu biết đến, được Crowley kết hợp với lá bài Lovers. Ngoài câu hỏi về việc làm thế nào mà những bức vẽ này được thực hiện, chắc chắn việc mở rộng dục tính của một người sang giới tính khác không phải là mục tiêu của lễ nghi này, mà là để nhận ra giới tính đối lập của một người bên trong họ: người đàn ông trải nghiệm bản thân trong khía cạnh nữ tính (bản ngã) của mình trong người phụ nữ; và người phụ nữ trải nghiệm bản thân trong khía cạnh nam tính của mình (bản ngã) trong người đàn ông. Cực điểm của sự hợp nhất gấp-bốn này (nam và nữ, nam và bản ngã nữ, nữ và bản ngã nam, bản ngã nữ và bản ngã nam) chính là khái niệm về sự lưỡng tính, vì trong hình ảnh của “vũ điệu lưỡng tính” thì cả hai trở thành một. Bên trong đó, các thái cực của cả hai giới tính kết hợp lại với nhau để tạo ra một hình ảnh duy nhất, và ở mức độ tinh thần thì điều này tương ứng với sự vượt trội của các mặt đối lập trong thế giới hữu hình! Trong truyền thống phương Đông, hình tượng lưỡng tính nguyên thủy này được hình thành từ “vũ điệu của Shiva”, vũ điệu này miêu tả sự tạo dựng của thế giới. Trong hình ảnh của “Cuộc hôn nhân Chymical”, cũng như trong những cuộc hôn nhân thần thánh của các nền văn hóa cổ mà ở đó nhà vua hợp nhất với nữ tu tối cao, tồn tại sự nỗ lực của con người nhằm vượt qua các mặt đối lập. Đạo Lão thể hiện điều này như sự kết hợp của thiên và địa, và “quá trình cá tính hóa” thuộc trường phái phân tích tâm lý do C.G. Jung sáng lập miêu tả sự điều tiết với khía cạnh vô thức của giới tính đối lập (bản ngã nam/bản ngã nữ) là một bước đi quyết định trên con đường trở thành một cá thể trọn vẹn.
Về tổng quan
Lá bài số VI là một trong những lá bài phức tạp và rắc rối nhất của bộ Ẩn Chính vì nó khắc họa tình dục và tình yêu của con người với toàn bộ sự mâu thuẫn của nó song hành với thuật giả kim của vũ trụ. Lá bài thể hiện sức mạnh của sự sống, một tình yêu sáng tạo có thể rất ấn tượng, nhưng cũng mang tính hủy diệt khi một người bỏ sót sự sục sôi trong bản năng, vốn có thể đốt cháy mọi lí trí và logic bằng ngọn lửa của nó một khi đã phun trào. Tình dục là cách mà chúng ta lần đầu tiên thoát ra khỏi sự cô lập của tính tự kỷ trung tâm của mình. Nó buộc chúng ta mở lòng ra với những thứ bên ngoài và để chúng ta tìm kiến mối liên kết với người khác, bởi vì thông qua mối liên kết này, chúng ta sẽ được trải nghiệm ý nghĩa sâu sắc hơn của cuộc sống trong sự định hướng đến sự phát triển và lớn mạnh của nó. Nó là một trong những điều tuyệt vời khi mà con người hòa mình vào chu kỳ của sự bất tận, bất chấp sự đề cao cái tôi và sự tách biệt quá mức với tự nhiên của họ, và chìa khóa cho quá trình này chính là tình dục. Tuy nhiên, lá bài này cũng chỉ ra một quyết định quan trọng được liên kết với trải nghiệm của tình yêu: việc từ bỏ các mục đích sống trước đây (nhà ba mẹ, cuộc sống độc thân, những cuộc tán tỉnh) và lời tuyên bố rõ ràng của tình yêu duy nhất. Bước đi này không chỉ dẫn đến những trải nghiệm vượt bậc mà Lovers đang đại diện, mà còn là lí do vì sao lá bài từng mang tên “Decision” – Quyết Định. Nó có thể chỉ ra các quyết định cần thiết nhưng chỉ liên quan một chút hoặc hoàn toàn không có liên quan gì đến tình yêu. Trong những trường hợp như thế, nó mang nghĩa rằng chúng ta nên đưa ra quyết định từ những điều sâu thẳm trong trái tim chúng ta, không mang theo thù hận và không giữ những cánh cửa của người khác chỉ để mở cho bản thân chúng ta. Việc chủ đề nào trong hai chủ đề này được lá bài nhấn mạnh chỉ có thể được phân biệt nhờ vào bối cảnh của câu hỏi. Dù trong trường hợp nào, nó cũng mang nghĩa “có” từ tận đáy lòng và từ ý muốn của một người.
Về ý thức
Ở mức độ nội tại, chúng ta hiểu rằng chúng ta sẽ đạt được một trải nghiệm hết sức sâu sắc chỉ khi chúng ta chiếm lĩnh được sự thiếu thốn bên trong mình. Chúng ta phải tự mình lấp đầy những gì còn thiếu, vì lòng khao khát khôn nguôi được tái chinh phục thiên đường bị mất thông qua sự sát nhập đầy tuyệt vọng với người khác không thể được thỏa mãn chừng nào chúng ta còn kiềm nén những sự trống rỗng bên trong mình thông qua mối liên kết với một người đồng sự “bổ sung”. Trong những lúc thế này, chúng ta có thể thấy rõ là cuộc gặp mặt với người bạn tâm giao không phải là một vấn đề thuộc hoạt động bên ngoài hay các cơ hội định lượng, và chắc chắn cũng không phải là vấn đề về các nỗ lực vất vả khi bị ép buộc phải đi đến các buổi khiêu vũ hay các buổi tiệc hay thậm chí tham gia vào các lớp học đặc biệt theo chủ đề tại các lớp học buổi đêm dành cho người lớn. Điều cần thiết duy nhất cho cuộc gặp mặt này chính là sự sẵn sàng thực thụ từ bên trong. Điều này mang ý nghĩa nhiều hơn cả ý định hay mong muốn được gặp mặt người đồng sự. Nó có nghĩa rằng chúng ta đã thành thực chuẩn bị bản thân mình và giờ đã thực sự sẵn sàng gặp mặt anh ấy hay cô ấy mà không hề dè dặt.
Về nghề nghiệp
Thông điệp chính là: “bạn không thể có mọi thứ”. Để đạt được những gì chúng ta khao khát, chúng ta phải từ bỏ một thứ khác gần gũi và thân thuộc với chúng ta. Hay như một câu nói của người Trung Quốc: “Bạn phải mở tay ra nếu muốn vốc được nước. Bạn sẽ không có được gì nếu cứ nắm chặt tay”. Vì thế, điều mà lá bài muốn nhấn mạnh nằm ở việc đưa ra quyết định. Nó cho thấy chúng ta nên đưa ra một quyết định rõ ràng từ trái tim sau khi đã cân nhắc mọi yếu tố có được. Điều này sẽ cho chúng ta một nền tảng dứt khoát và mang tính định hướng cho các quyết định sau này của mình.
Về những mối quan hệ
Trong các mối quan hệ cá nhân, lá bài này đại diện cho một tình yêu thực thụ có thể làm rung động và chạm vào sâu thẳm trong chúng ta. Lá bài có thể chỉ ra một mối quan hệ mới hoặc báo hiệu rằng niềm hạnh phúc to lớn của chúng ta có thể được tìm thấy trong mối quan hệ hiện tại. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang nghĩa rằng hiện tại chúng ta đang chiếu lại hình ảnh sâu thẳm của chính chúng ta lên người yêu trong mộng, vì thế ta sẽ chỉ trải nghiệm được niềm hạnh phúc và sự trọn vẹn khi sức mạnh của sự phản chiếu đó bị thu nhỏ lại. Trong trường hợp này, nó là một lời thúc đẩy chúng ta hãy đào sâu vào bản chất tội tại của người khác, vượt qua hình ảnh mà chúng ta tự vẽ ra cho họ, thay vì nhanh chóng đi tìm một tấm màn khác để chiếu lên hình ảnh về “người yêu trong mộng”.
Những Tương Quan Tương Tự
1. Những hình mẫu và biểu tượng
Hình mẫu
Eros.
Chữ cái
Zain/Dsain = S/Ds (“thanh gươm”): số học mang giá trị 7. Sinh vật lưỡng tính hình cầu, tự ôm lấy chính nó, bị cắt ra làm hai bởi thanh gươm. Từ đó, hai phần luôn đi tìm nhau.
Con Số
6 là con số của sự hợp nhất giữa các mặt đối lập và của sự thông suốt lẫn nhau, như được biểu tượng bởi ngôi sao sáu cánh và hình sao sáu cạnh (hex trong Hy Lạp = 6 và gramma = ký tự) của Kinh Dịch, ở đó âm và dương giao nhau theo nhiều mặt.
Tree of life
Mối liên kết giữa Binah và Tiphareth. Crowley viết: “Từ quan điểm này, ông là một biểu tượng của nguồn cảm hứng (Binah), buông xuống từ nhân vật trùm mũ (Tiphareth), là một nhà tiên tri đang thực hiện nghi lễ tác hợp cho Đức Vua và Nữ Hoàng”.
Kinh Dịch
31 Hsien – “Sự Ảnh Hưởng”.
Runes
Kaunaz/Kan (“lửa”) và Wunjo (“ánh sáng”). Kan, mẫu tự rune thứ sáu, thể hiện uy lực hoặc khía cạnh tích cực của Lovers, sự hòa hợp của các mặt đối lập trong sự hợp nhất hoặc những khía cạnh sáng tạo của tình yêu. Trong khi Wunjo chỉ ra điểm hài hòa giữa các chuyển động đối lập, sự hài hòa và niềm hạnh phúc, và vì thế cũng là điểm kết thúc của sự mất cân bằng thiếu hài hòa.
Hành tinh
Song Tử. Tại đây, Crowley ám chỉ đến cấu trúc của sự miêu tả theo đôi của các biểu tượng trong lá bài, chúng nhận các đặc tính nhân đôi hoặc song sinh (luôn có một mặt đối lập phía sau mỗi ý kiến).
Các vị thần
Aphrodite, Inanna và Venus, những nữ thần của tình yêu là hiện thân của sao mai, và vị thần đối ứng biết bắn tên của họ, Eros, Amor và Cupid.
Thần thoại
Adam và Eve, hay Amor và Psyche, câu chuyện về sự hợp nhất của linh hồn con người với vị thần Eros. Crowley thuật lại:
Có một câu chuyện truyền thuyết về Eve và con Rắn, Cain là con của Eve và con Rắn, không phải của Eve và Adam, và vì thế khi anh giết chết anh trai của mình, để lại cho Cain một dấu bớt trên chân mày, tức dấu ấn của con Mãnh Thú được nói đến trong Sách Khải Huyền, và là dấu hiệu của Sự Khai Tâm 666. Máu rơi là cần thiết, vì Chúa không còn nghe về đứa con của Eve cho đến khi máu đã đổ. Đây là một điều bí ẩn của chiếc chìa khóa thứ sáu trong Tarot, vốn không nên được gọi là Lovers mà Brothers mới đúng.
Những địa điểm linh thiêng
Cythera, hòn đảo Hy Lạp nằm giữa Peloponnese và Crete, là trung tâm đền thờ tình yêu của Aphrodite trong quá khứ.
Ngày lễ thánh
Đêm tình yêu, cụ thể là đêm đầu tiên của tình yêu hay sự hợp nhất đầu tiên với người đồng sự mới.
Nghi lễ
“Cuộc hôn nhân Chymical”. Vở kịch tình yêu màu nhiệm với bối cảnh linh hồn.
2. Những liên tưởng và nhận thức
Tranh ảnh
“The Embarkation to Cythera” vẽ bởi Antoine Watteau hay cái nhìn gợi cảm trong bức tranh “The Swing” của Jean-Honoré Fragonard, vốn rất gần với ranh giới của tính phù phiếm. Theo nghĩa chủ đề thì có bức “The Judgement of Paris” vẽ bởi Raffael và bức “The Damnation of the Lovers” vẽ bởi Marthias Gruenwald.
Văn chương
Những bản tình ca của Shulamite trong vở opera “The Queen of Sheba” bởi Karl Goldmark hay các khao khát được giải thoát của Isolde (một kỷ vật của sự đê mê rạo rực của tình yêu xuất phát từ những phần sâu thẳm trong niềm say mê không thể thoả mãn) từ tác phẩm “Tristan và Isolde” của Richard Wagner.
Mùi hương
Xạ hương, gỗ đàn hương.
Đá quí
Đá Carnelian, san hô đỏ, thạch anh hồng.
Chiêm tinh học
Kim Tinh/Hỏa Tinh (ở mức độ cao hơn thì là Mặt Trăng/Mặt Trời). Những hành tinh nam tính, Mặt Trời và Hỏa Tinh, và những hành tinh nữ tính, Mặt Trăng và Kim Tinh, không chỉ mang đến những điều ước và sự yêu thích trong mối quan hệ, mà còn cho chúng ta thấy hình ảnh cá nhân của chúng ta cũng như hình ảnh của cái mà chúng ta đang tìm kiếm, và do đó, nó miêu tả cách mà sự hợp nhất của bộ bốn xuất hiện (xem lại “Bối cảnh/Cuộc hôn nhân Chymical”).
Trích dẫn
“Nếu một người không nhận thức được sự vĩnh hằng tồn tại trong tình yêu thông qua trực giác thì họ sẽ dễ dàng biến nó thành một bi kịch cá nhân. Khi đó một tia dù nhỏ nhất từ ngọn lửa bất diệt cũng sẽ bị dập tắt trong vũng nước bùn” – Marie-Louise von Franz
Bộ Bài Aleister Crowley Thoth Tarot – Aleister Crowley, Frieda Harris
Bảng tra cứu ý nghĩa 78 lá bài Thoth Tarot